Không thực hiện cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn xử lý thế nào?
Theo quy định tại Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình, nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn như sau:
1. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi.
2. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.
3. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.
Nghĩa vụ cấp dưỡng được định nghĩa là trách nhiệm pháp lý của một cá nhân nhằm đóng góp tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người không sống chung với mình nhưng có quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng. Bản chất của nghĩa vụ cấp dưỡng là sự hỗ trợ tài chính để duy trì cuộc sống và đáp ứng các nhu cầu cơ bản.
Khi ly hôn, nghĩa vụ cấp dưỡng đặc biệt được chú trọng đối với cha hoặc mẹ không trực tiếp nuôi con. Pháp luật quy định rõ ràng rằng người cha hoặc người mẹ không trực tiếp nuôi con sau ly hôn có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con. Điều này nhằm đảm bảo rằng dù quan hệ hôn nhân giữa cha mẹ đã chấm dứt, trách nhiệm nuôi dưỡng và chăm sóc con cái vẫn được duy trì đầy đủ. Việc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng là yếu tố then chốt để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em. Trẻ em được pháp luật Việt Nam xem là đối tượng dễ bị tổn thương và cần được quan tâm, hỗ trợ kịp thời để đảm bảo cuộc sống và sự phát triển. Các khoản cấp dưỡng giúp đáp ứng các nhu cầu thiết yếu về vật chất, giáo dục, và y tế, góp phần đảm bảo sự ổn định cuộc sống và tạo điều kiện cho sự phát triển toàn diện của trẻ sau khi cha mẹ ly hôn.
Vì vậy, Pháp luật Việt Nam đã xây dựng một khung pháp lý tương đối toàn diện về nghĩa vụ cấp dưỡng, đặc biệt là trong bối cảnh ly hôn, nhằm bảo vệ quyền lợi của các đối tượng yếu thế.
Đối tượng được cấp dưỡng bao gồm:
- Con chưa thành niên: Đây là những người chưa đủ 18 tuổi.
- Con đã thành niên nhưng không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình: Quy định này mở rộng phạm vi bảo vệ cho những người con đã trưởng thành nhưng vẫn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của cha mẹ do các yếu tố khách quan. Ví dụ: Con bị khuyết tật, mắc bệnh hiểm nghèo
Tóm lại, khi ly hôn người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ bắt buộc cấp dưỡng tiền cho người trực tiếp nuôi con. Trừ trường hợp, các bên có thoả thuận khác (không yêu cầu cấp dưỡng). Việc không cấp dưỡng tiền nuôi con là hành vi vi phạm pháp luật có thể bị cưỡng chế bắt buộc phải thực hiện nghĩa vụ theo Luật dân sự, bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị xử lý trách nhiệm hình sự nếu cố tình trốn tránh trách nhiệm cấp dưỡng tiền nuôi con.
1. Thủ tục yêu cầu thi hành án cấp dưỡng
Mặc dù pháp luật đã thiết lập các chế tài dân sự về bồi thường, hành chính về xử phạt, hình sự về truy tố…) rất rõ ràng và quy định thủ tục thi hành án nhằm đảm bảo nghĩa vụ cấp dưỡng được thực hiện. Trên thực tiễn việc thực thi vẫn phát sinh nhiều vướng mắc, khó khăn.
Khi bản án hoặc quyết định ly hôn đã có hiệu lực pháp luật và quy định về nghĩa vụ cấp dưỡng nhưng người có nghĩa vụ không thực hiện, người được cấp dưỡng (hoặc người trực tiếp nuôi con) có quyền nộp đơn yêu cầu cơ quan Thi hành án dân sự (THADS) có thẩm quyền để buộc người kia thực hiện nghĩa vụ.
Hồ sơ yêu cầu thi hành án cần chuẩn bị bao gồm:
- Đơn yêu cầu thi hành án dân sự (theo mẫu D04-THADS);
- Bản án hoặc quyết định ly hôn đã có hiệu lực pháp luật, bản sao có công chứng/chứng thực giấy tờ tùy thân (CMND/CCCD), sổ hộ khẩu của các bên, bản sao giấy khai sinh của con;
- Các chứng cứ chứng minh thu nhập hoặc tài sản của người phải thi hành án (nếu có). Trong trường hợp không tìm được thông tin về tài sản, người yêu cầu có thể đề nghị Chi cục THADS xác minh
Thời hiệu yêu cầu thi hành án là 05 năm, tính từ ngày bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật. Đối với các bản án, quyết định cấp dưỡng thi hành theo định kỳ, thời hạn 05 năm được áp dụng cho từng định kỳ, kể từ ngày nghĩa vụ đến hạn thực hiện.
Về quy trình, hồ sơ được nộp tại Chi cục THADS cấp huyện nơi người có nghĩa vụ cư trú (thường trú hoặc tạm trú) Trong vòng 05 ngày làm việc kể từ khi tiếp nhận và kiểm tra nội dung yêu cầu cùng các tài liệu kèm theo, cơ quan THADS sẽ thông báo bằng văn bản cho người yêu cầu. Khi hết thời hạn 10 ngày tự nguyện thi hành án mà người có nghĩa vụ cấp dưỡng không thực hiện, cơ quan THADS sẽ áp dụng các biện pháp cưỡng chế.
Có thể thấy rằng: Khi ly hôn việc thoả thuận rõ về số tiền cấp dưỡng nuôi con là căn cứ pháp lý quan trọng để đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng tiền nuôi con. Việc thoả thuận và ghi nhận số tiền cấp dưỡng nuôi con, phương thức cấp dưỡng tiền nuôi con trong Quyết định công nhận thuận tình ly hôn của toà án/Bản án ly hôn sẽ là căn cứ để Cơ quan thi hành án yêu cầu bên có nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ này theo bản án/Quyết định đã có hiệu lực của toà án. Và ngược lại, nếu trong bản án/quyết định ly hôn không có quy định cụ thể sẽ gây những khó khăn, cản trở trong việc đảm bảo yêu cầu thi hành nghĩa vụ cấp dưỡng. Buộc bên trực tiếp nuôi con phải khởi kiện để xác định lại số tiền phải cấp dưỡng theo quy định của pháp luật.
2. Các biện pháp cưỡng chế thi hành án
Pháp luật quy định các biện pháp cưỡng chế để buộc người có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, bao gồm:
- Khấu trừ tiền trong tài khoản của người phải thi hành án.
- Trừ vào thu nhập hàng tháng (tiền lương, thu nhập từ các nguồn khác).
- Kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án.
Trên thực tiễn, việc áp dụng biện pháp trừ vào thu nhập của cha, mẹ phải thi hành án để thi hành án cấp dưỡng nuôi con còn gặp khó khăn và việc cưỡng chế khấu trừ tiền trong tài khoản cũng không ít trở ngại do người có nghĩa vụ cấp dưỡng thường thông có các tài khoản đảm bảo hoặc là lao động tự do không có thu nhập cố định. Ở Việt Nam, việc khấu trừ thu nhập trong tài khoản hoặc trừ thu nhập vào tiền lương/tiền công của người có nghĩa vụ trước đây thường rất khó triển khai. Nhưng đây sẽ là một trong những phương án cưỡng chế hiệu quả trong tương lai khi nhà nước đã tiến hành định danh được tài khoản ngân hàng, sổ tiết kiệm … và việc trả tiền lương qua tài khoản sắp tới có thể là yêu cầu bắt buộc. Cơ quan thi hành án nếu quản lý được các thông tin này có thể phong toả hoặc buộc trích lập một phần thu nhập trong tài khoản sẽ là một phương án bảo đảm thi hành án tốt nhất.
Tương tự với việc xử lý tài sản của người phải thi hành án, nhà nước đang có những bước tiến lớn trong việc “định danh” được các tài sản do mỗi cá nhân đang sở hữu trên phạm vi toàn quốc. Dẫn đến việc cố tình che giấu tài sản nhằm trốn tránh, không thực hiện nghĩa vụ sẽ không thể thực hiện được như trước đây.
3. Các biện pháp xử lý người có hành vi trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng
Người cố tình trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng tiền nuôi con có thể đối diện với biện pháp hành chính (xử phạt) và khả năng bị truy cứu trách nhiệm hình sự, cụ thể:
3.1 Xử phạt vi phạm hành chính
Đối với hành vi từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng, nuôi dưỡng cha, mẹ hoặc con sau ly hôn theo quy định của pháp luật, người vi phạm có thể bị xử phạt vi phạm hành chính. Theo Điều 57, Nghị định 144/2021/NĐ-CP, mức phạt tiền áp dụng là từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng. Ngoài ra, người vi phạm còn bị áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả là buộc thực hiện nghĩa vụ đóng góp, nuôi dưỡng theo quy định.
Ví dụ: Toà án yêu cầu Anh Thành sau khi ly hôn phải trợ cấp cho con của mình là cháu Hưng mỗi tháng 4.000.000 đồng. Nhưng do mâu thuẫn với vợ, Anh Thành ngừng cấp dưỡng cho cháu trong khoảng thời gian 2 năm gần đây. Chị Hoa (vợ Anh Thành) khởi kiện và yêu cầu trợ cấp tiền nuôi con theo Quyết định/Bản án ly hôn mà toà án đã tuyên có hiệu lực.
Theo quy định, Anh Thành có thể bị xử phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng. Buộc phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng 4.000.000 đồng x 24 tháng = 96.000.000 đồng. Ngoài ra, Anh Thành phải trả tiền lãi cho khoản tiền 96 triệu đồng này trong khoảng thời gian vi phạm nghĩa vụ cấp dưỡng.
Như vậy, người có khả năng cấp dưỡng tiền nuôi con khi ly hôn nhưng cố tình từ chối hoặc trốn tránh sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính và buộc phải khắc phục hậu quả thiệt hại do hành vi mà mình gây ra.
3.2 Truy cứu trách nhiệm hình sự
Bên cạnh chế tài hành chính, hành vi trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng còn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Điều 186 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định về tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng.
Theo đó, người nào có nghĩa vụ cấp dưỡng và có khả năng thực tế để thực hiện việc cấp dưỡng đối với người mà mình có nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của pháp luật mà cố tình từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng, làm cho người được cấp dưỡng lâm vào tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe, hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn tiếp tục vi phạm, thì có thể bị:
- Phạt cảnh cáo.
- Phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm.
- Phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
Bảng 2: Tóm tắt chế tài xử lý hành vi trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng tại Việt Nam
Loại chế tài | Cơ sở pháp lý | Mức xử phạt/hình phạt | Điều kiện áp dụng | Cơ quan có thẩm quyền |
Xử phạt hành chính | Điều 57 Nghị định 144/2021/NĐ-CP | Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng. Biện pháp khắc phục hậu quả: Buộc thực hiện nghĩa vụ đóng góp, nuôi dưỡng. | Từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng, nuôi dưỡng cha, mẹ hoặc con sau ly hôn theo quy định của pháp luật. | Cơ quan có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính theo Nghị định 144/2021/NĐ-CP (ví dụ: Công an, Chủ tịch UBND). |
Trách nhiệm hình sự | Điều 186 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) | Phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến 02 năm, hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm. | Cố tình từ chối/trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng, làm người được cấp dưỡng lâm vào tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe HOẶC đã bị xử phạt hành chính mà còn tiếp tục vi phạm. | Tòa án (theo đề nghị của Viện kiểm sát). |
Bảng này cung cấp một cái nhìn tổng quan có cấu trúc về các chế tài pháp lý đối với hành vi trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng tại Việt Nam. Nó làm rõ sự phân cấp giữa xử phạt hành chính và trách nhiệm hình sự, cùng với các điều kiện cụ thể để áp dụng từng loại chế tài. Bảng này cũng là một công cụ hữu ích để đánh giá mức độ nghiêm minh của pháp luật và làm cơ sở cho việc so sánh với các mô hình quốc tế.
4. Những vướng mắc và thách thức trong thực tiễn thi hành án cấp dưỡng
Trong quá trình tham gia giải quyết các tranh chấp liên quan đến việc cấp dưỡng/trợ cấp tiền cho con sau khi ly hôn, Luật Minh Khuê nhận thấy rằng: Mặc dù pháp luật Việt Nam đã thiết lập đầy đủ các chế tài hành chính và hình sự đối với hành vi trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng, thực tiễn thi hành án vẫn đối mặt với những thách thức đáng kể, cho thấy một khoảng cách đáng kể giữa quy định trên giấy tờ và hiệu quả thực thi.
Một trong những vướng mắc lớn nhất là khó khăn trong xác minh thu nhập và tài sản của người có nghĩa vụ cấp dưỡng. Người có nghĩa vụ thường tìm cách che giấu thu nhập, gây khó khăn cho cả Tòa án trong việc xác định mức cấp dưỡng hợp lý và cơ quan THADS trong việc cưỡng chế. Tình trạng tẩu tán tài sản cũng diễn ra phổ biến. Sự tồn tại đồng thời của các chế tài nghiêm khắc và các vấn đề thực thi dai dẳng cho thấy rằng việc có luật không đồng nghĩa với việc luật được thực thi hiệu quả. Vấn đề không nằm ở sự thiếu vắng các quy định pháp luật hay chế tài, mà ở khả năng thực thi chúng. Các rào cản chính dường như là việc khó khăn trong việc xác định và tiếp cận nguồn thu nhập/tài sản của người có nghĩa vụ, tính chất kéo dài của quy trình tố tụng và thi hành án, và có thể là thiếu nguồn lực hoặc cơ chế chuyên biệt trong các cơ quan thi hành án để xử lý hiệu quả các vụ việc này. Điều này làm giảm tính răn đe của các chế tài và ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của trẻ em.
Thực tiễn cho thấy thời gian thi hành án cấp dưỡng thường bị kéo dài, khó kết thúc nhanh chóng, gây ảnh hưởng trực tiếp và nghiêm trọng đến quyền lợi của trẻ em, những người cần sự hỗ trợ kịp thời. Các vụ việc có thể kéo dài hàng năm cho đến khi nghĩa vụ cấp dưỡng chấm dứt.
Các biện pháp cưỡng chế mặc dù được quy định nhưng vẫn còn hạn chế trong việc áp dụng hiệu quả. Ví dụ, việc khấu trừ tiền trong tài khoản hoặc trừ vào thu nhập hàng tháng còn gặp khó khăn. Đối với các khoản cấp dưỡng định kỳ nhỏ (chỉ từ 100.000đ đến 300.000đ/tháng/cháu), việc kê biên tài sản có giá trị lớn để khấu trừ một lần là không khả thi. Cơ quan thi hành án đôi khi phải “đợi” và “chờ” đến một hoặc hai năm để xác định được số tiền đủ lớn mới có thể tổ chức cưỡng chế kê biên tài sản như ti vi, xe máy, chứ không thể kê biên tài sản có giá trị lớn như nhà ở hay quyền sử dụng đất để khấu trừ hết một lần.
Một thách thức khác là thiếu hướng dẫn cụ thể về khái niệm “nuôi dưỡng” và các tiêu chí để xác định một đứa trẻ sẽ được đảm bảo nuôi dưỡng như thế nào để đáp ứng các điều kiện vật chất tối thiểu.10 Điều này dẫn đến việc áp dụng pháp luật có thể tùy thuộc vào nhận định chủ quan của thẩm phán, gây ra sự bất bình đẳng giữa các Tòa án và ảnh hưởng đến quyền lợi của trẻ. Tình trạng án tồn đọng tại nhiều nơi cũng gây ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của đứa con – người đang rất cần khoản cấp dưỡng để trang trải các chi phí cho cuộc sống hàng ngày.
Ngay cả khi có quyết định thay đổi mức cấp dưỡng từ Tòa án, việc xử lý của cơ quan THADS vẫn còn nhiều tranh luận và quan điểm khác nhau, gây ra sự chậm trễ và không chắc chắn trong quá trình thực thi.
Vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ và các tổ chức xã hội khác trong hỗ trợ pháp lý và hòa giải là quan trọng, nhưng giới hạn về quyền lực thực thi cho thấy cần có sự tăng cường năng lực và phối hợp chặt chẽ hơn với các cơ quan nhà nước để giải quyết triệt để vấn đề. Mặc dù các tổ chức này đóng vai trò “cầu nối” và “tư vấn”, nhưng để giải quyết gốc rễ vấn đề trốn tránh cấp dưỡng, cần có sự tăng cường đáng kể về khả năng thực thi từ phía nhà nước. Điều này có thể bao gồm việc trao quyền lớn hơn cho các tổ chức xã hội trong việc hỗ trợ thu thập chứng cứ, hoặc thiết lập các cơ chế phối hợp chính thức và hiệu quả hơn giữa họ với Tòa án và cơ quan THADS, nhằm biến những thông tin và kiến nghị từ cơ sở thành hành động pháp lý kịp thời và hiệu quả.
Tham khảo thêm: https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Quyen-dan-su/Luat-Hon-nhan-va-gia-dinh-2014-238640.aspx