Chia tài sản khi chồng bị tuyên bố chết rồi trở về – Quy định mới nhất năm 2025

Chia tài sản khi chồng bị tuyên bố chết rồi trở về - Quy định mới nhất năm 2025
Table of Contents

Tình huống: Anh A và chị B kết hôn năm 1988, năm 1995 anh A bỏ đi biệt tích. Năm 2000, chị B yêu cầu tòa án có thẩm quyền tuyên bố anh A đã chết theo luật định. Anh A và chị B có tài sản là ngôi nhà hiện chị B đang sinh sống. Năm 1997 chị B trúng vé số với số tiền là 2 tỷ đồng. Năm 2008, chị B kết hôn với anh C và 2 người vẫn sinh sống tại ngôi nhà trên. Năm 2010 anh A quay trở về và yêu cầu tòa án có thẩm quyền hủy quyết định tuyên bố anh A đã chết. Năm 2011, anh A làm đơn yêu cầu chia tài sản là ngôi nhà mà chị B và anh C đang quản lý và số tiền 1 tỷ đồng, anh A cho rằng số tiền này là tài sản chung của anh A và chị B. Như vậy, trong trường hợp chồng bị tuyên bố chết rồi trở về thì ai có quyền với tài sản?

Hình ảnh minh họa

Quan hệ hôn nhân giữa các bên

  • Giữa anh A và chị B:
    Anh A và chị B kết hôn năm 1988, là quan hệ hôn nhân hợp pháp theo quy định pháp luật. Tuy nhiên, đến năm 1995, anh A bỏ đi biệt tích và năm 2000, theo yêu cầu của chị B, Tòa án có thẩm quyền đã ra quyết định tuyên bố anh A đã chết theo quy định tại Điều 71 Bộ luật Dân sự 1995 (BLDS hiện hành tại thời điểm yêu cầu). Kể từ thời điểm quyết định có hiệu lực pháp luật, quan hệ hôn nhân giữa anh A và chị B đương nhiên chấm dứt theo quy định tại khoản 1 Điều 65 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014:

Điều 65. Thời điểm chấm dứt hôn nhân

Hôn nhân chấm dứt kể từ thời điểm vợ hoặc chồng chết.

Trong trường hợp Tòa án tuyên bố vợ hoặc chồng là đã chết thì thời điểm hôn nhân chấm dứt được xác định theo ngày chết được ghi trong bản án, quyết định của Tòa án.

  • Giữa chị B và anh C:
    Năm 2008, chị B kết hôn với anh C. Vì vào thời điểm này, chị B đã không còn quan hệ hôn nhân hợp pháp với anh A (do anh A đã bị tuyên bố chết), nên quan hệ hôn nhân giữa chị B và anh C được xác lập hợp pháp theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình.

Như vậy, tại thời điểm năm 2008, quan hệ hôn nhân hợp pháp là giữa chị B và anh C; còn quan hệ giữa chị B và anh A đã chấm dứt từ sau quyết định tuyên bố anh A đã chết có hiệu lực pháp luật.

Giải quyết tài sản là ngôi nhà – Căn cứ pháp lý và phân tích

Tài sản là ngôi nhà do anh A và chị B cùng tạo lập trong thời kỳ hôn nhân (trước năm 1995), được xác định là tài sản chung của vợ chồng.

Năm 2010, anh A trở về và yêu cầu Tòa án hủy quyết định tuyên bố anh đã chết. Sau khi Tòa án hủy quyết định này, việc giải quyết tài sản giữa anh A và chị B sẽ được thực hiện theo điểm b khoản 2 Điều 67 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014:

“Trong trường hợp hôn nhân không được khôi phục thì tài sản có trước khi quyết định tuyên bố một người là đã chết có hiệu lực mà chưa được giải quyết thì được giải quyết theo quy định tại Điều 59 của Luật này”.

Theo đó, tài sản là ngôi nhà – nếu chưa có sự phân chia trước đó – sẽ được xác định là tài sản chung của anh A và chị B và được chia đôi, có tính đến công sức đóng góp của mỗi bên, căn cứ theo khoản 2 và khoản 4 Điều 59 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014.

Việc chị B đang sử dụng, quản lý ngôi nhà cùng anh C là một tình tiết được xem xét, nhưng không làm thay đổi quyền sở hữu hợp pháp phần tài sản của anh A.

Số tiền 2 tỷ đồng do chị B trúng vé số có phải tài sản chung không?

Chị B trúng vé số năm 1997 – sau khi anh A đã mất tích và trước khi có quyết định tuyên bố anh A đã chết, nhưng cần lưu ý rằng vào thời điểm này, quan hệ hôn nhân giữa chị B và anh A chưa chính thức chấm dứt, vì chỉ đến năm 2000 Tòa án mới tuyên bố anh A đã chết. Tuy nhiên, trong thực tiễn xét xử, các Tòa án thường xác định rằng việc một bên mất tích kéo dài nhiều năm và không có sự đóng góp, tham gia trong đời sống hôn nhân có thể là căn cứ để xem tài sản phát sinh trong thời gian đó là tài sản riêng của người còn lại, đặc biệt trong trường hợp đặc biệt như trúng thưởng.

Theo khoản 4 Điều 59 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, tài sản riêng của vợ hoặc chồng thuộc quyền sở hữu riêng của người đó. Trong trường hợp này, số tiền 2 tỷ đồng là kết quả từ hành vi may rủi, không phải tài sản do cả hai cùng tạo lập hay đóng góp, lại phát sinh trong thời gian anh A biệt tích hoàn toàn, nên có thể được xác định là tài sản riêng của chị B.

Kết luận

  • Quan hệ hôn nhân giữa anh A và chị B đã chấm dứt khi Tòa án tuyên bố anh A chết vào năm 2000; việc chị B kết hôn với anh C là hợp pháp.
  • Ngôi nhà là tài sản chung của anh A và chị B, được chia theo nguyên tắc chia đôi có xét đến công sức đóng góp của các bên.
  • Số tiền 2 tỷ đồng do chị B trúng vé số vào năm 1997 được xác định là tài sản riêng của chị B, anh A không có quyền yêu cầu chia phần tài sản này.

Dịch vụ giải quyết tranh chấp tài sản khi một bên bị tuyên bố đã chết tại Công ty Luật TNHH HTL

Những tranh chấp liên quan đến tài sản chung, tài sản riêng, đặc biệt trong các trường hợp một bên vợ/chồng bị tuyên bố đã chết rồi quay trở về, luôn là vấn đề pháp lý phức tạp, nhạy cảm và tiềm ẩn nhiều rủi ro. Việc xác định thời điểm chấm dứt hôn nhân, quyền tái hôn, phân chia tài sản trước và sau khi tuyên bố chết… đòi hỏi kiến thức chuyên sâu và kinh nghiệm xử lý thực tế.

Nếu bạn đang vướng vào các tình huống pháp lý tương tự hoặc cần bảo vệ quyền lợi tài sản hợp pháp của mình, Công ty Luật TNHH HTL chính là đối tác pháp lý đáng tin cậy của bạn.

Chúng tôi cung cấp các dịch vụ chuyên nghiệp sau:
  • Tư vấn cụ thể về quyền và nghĩa vụ tài sản khi một bên bị tuyên bố là đã chết và sau đó trở về;
  • Hỗ trợ chuẩn bị hồ sơ yêu cầu chia tài sản, khôi phục quyền lợi hoặc bảo vệ tài sản hợp pháp đang quản lý;
  • Soạn thảo đơn yêu cầu hủy quyết định tuyên bố đã chết, phân chia tài sản chung, bảo vệ tài sản riêng;
  • Đại diện tranh tụng tại Tòa án với đội ngũ luật sư giàu kinh nghiệm trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình.

Liên hệ ngay để được tư vấn miễn phí lần đầu và nhận báo giá dịch vụ ưu đãi.

 


Bài viết có tham khảo văn bản Luật HN&GĐ từ website Thư viện pháp luật. Để biết thêm thông tin chi tiết về từng trường hợp cụ thể, vui lòng liên hệ Công ty Luật HTL

Back to Top
Gọi ngay
Tổng đài tư vấn pháp luật miễn phí: 1900 5074